Na Hang
Na Hang (viết chính xác là Nà Hang - với ý nghĩa là ruộng cuối hoặc ruộng dưới thung lũng) là một huyện thuộc tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam.
Na Hang | |||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Na Hang | |||
![]() | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đông Bắc Bộ | ||
Tỉnh | Tuyên Quang | ||
Huyện lỵ | thị trấn Na Hang | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 11 xã | ||
Thành lập | 1944 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Hoàng Anh Cương | ||
Chủ tịch HĐND | Vân Đình Thảo | ||
Bí thư Huyện ủy | Vân Đình Thảo | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 22°21′14″B 105°23′16″Đ / 22,353833°B 105,3877878°Đ | |||
| |||
Diện tích | 865,50 km²[1] | ||
Dân số (2011) | |||
Tổng cộng | 41.868 người[1] | ||
Mật độ | 48 người/km² | ||
Dân tộc | Tày, Dao, Kinh, H'Mông | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 072[2] | ||
Biển số xe | 22-N1 | ||
Website | nahang | ||
Địa lý
Huyện Na Hang nằm ở phía bắc tỉnh Tuyên Quang, cách thành phố Tuyên Quang khoảng 110 km, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp huyện Chợ Đồn, huyện Ba Bể và huyện Pác Nặm thuộc tỉnh Bắc Kạn
- Phía tây giáp huyện Lâm Bình
- Phía nam giáp huyện Chiêm Hóa
- Phía bắc giáp huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang và huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
Huyện Na Hang có diện tích 865,50 km², dân số năm 2011 là 41.868 người.[1]
Na Hang là một huyện vùng cao, được chia thành 3 khu: A, B, C; càng về phía bắc, độ cao càng tăng dần. Núi ở đây phần lớn là núi đá vôi. Sông Gâm và một phụ lưu của nó là sông Năng là hai con sông lớn nhất ở huyện. Địa hình ở Na Hang thuận lợi cho việc phát triển thủy điện, có Nhà máy thủy điện Tuyên Quang.
Lịch sử
Sau năm 1954, huyện Na Hang bao gồm 21 xã: Côn Lôn, Đà Vị, Đức Xuân, Hoa Thành, Hồng Thái, Khuôn Hà, Lăng Can, Năng Khả, Phúc Yên, Sinh Long, Sơn Phú, Thanh Tương, Thượng Giáp, Thượng Lâm, Thượng Nông, Thượng Yên, Thúy Loa, Trùng Khánh, Trung Thượng, Vĩnh Yên và Yên Viễn.
Ngày 22 tháng 5 năm 1969:
- Hợp nhất 2 xã: Lăng Can và Thượng Yên thành xã Lăng Can
- Hợp nhất 2 xã: Đà Vị và Trung Thượng thành xã Đà Vị
- Hợp nhất 2 xã: Yên Viễn và Hoa Thành thành xã Yên Hoa.[3]
Năm 1975, Tuyên Quang sáp nhập với Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên, huyện Na Hang thuộc tỉnh Hà Tuyên.[4]
Ngày 13 tháng 2 năm 1987[5]:
- Chia xã Lăng Can thành 2 xã: Lăng Can và Xuân Lập
- Chia xã Côn Lôn thành 2 xã: Côn Lôn và Khâu Tinh
- Sáp nhập xóm Bắc Vãng của xã Côn Lôn vào xã Trùng Khánh
- Sáp nhập xốm Bản Lãm của xã Đà Vị vào xã Khâu Tinh
- Thành lập thị trấn Na Hang (thị trấn huyện lỵ huyện Na Hang) trên cơ sở 68,8 ha đất với 87 nhân khẩu của xã Thanh Tương; 675,2 ha đất với 840 nhân khẩu của xã Năng Khả và 925 ha đất với 3.650 nhân khẩu của xã Vĩnh Yên.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Tuyên Quang được tái lập từ tỉnh Hà Tuyên, huyện Na Hang thuộc tỉnh Tuyên Quang.[6]
Ngày 15 tháng 7 năm 1999, chia xã Đức Xuân thành 2 xã: Xuân Tân và Xuân Tiến.[7]
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, giải thể 5 xã: Thúy Loa, Xuân Tân, Xuân Tiến, Trùng Khánh và Vĩnh Yên (do nằm trong hồ thủy điện Tuyên Quang).[8]
Cuối năm 2010, huyện Na Hang bao gồm thị trấn Na Hang và 16 xã: Côn Lôn, Đà Vị, Hồng Thái, Khâu Tinh, Khuôn Hà, Lăng Can, Năng Khả, Phúc Yên, Sinh Long, Sơn Phú, Thanh Tương, Thượng Giáp, Thượng Lâm, Thượng Nông, Xuân Lập, Yên Hoa.
Ngày 28 tháng 1 năm 2011, tách 5 xã: Lăng Can, Thượng Lâm, Khuôn Hà, Phúc Yên và Xuân Lập để thành lập huyện Lâm Bình.[9]
Huyện Na Hang còn lại 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Na Hang có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Na Hang (huyện lỵ) và 11 xã: Côn Lôn, Đà Vị, Hồng Thái, Khâu Tinh, Năng Khả, Sinh Long, Sơn Phú, Thanh Tương, Thượng Giáp, Thượng Nông, Yên Hoa.
Du lịch
Di tích lịch sử
Na Hang có nhiều di tích lịch sử, đặc biệt là các di tích:
- Di tích đền Pác Tạ[10] (thị trấn Na Hang) là một trong những dấu tích còn lại minh chứng cho cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai năm 1285: vị tướng tài giỏi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật lúc đó đương trấn thủ vùng đất Tuyên Quang đã khôn khéo chỉ huy quân chống giặc từ Vân Nam xuống. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy, ngôi đền Pác Tạ được dựng lên bên Gâm giang dưới ngọn Tạ Sơn để phụng thờ và ngưỡng vọng vị hôn phu (người vợ sắp cưới) của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Hình ảnh về vị hôn phu của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đã được người dân nơi đây khoác lên tấm áo truyền thuyết ly kỳ lưu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền thuyết kể lại rằng: Trong thời gian trấn thủ vùng đất Tuyên Quang xưa, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đã đem lòng ái mộ con gái một viên tù trưởng địa phương. Cô thiếu nữ miền sơn cước tài mạo, xinh đẹp, tính tình hiền thục lại xuất thân trong một gia đình hiếu học. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông, triều đình đứng ra tổ chức hôn lễ cho tướng quân Trần Nhật Duật với ái nữ xứ Tuyên. Trên đường đón vị hôn phu của Tướng quân họ Trần về kinh đô, qua đây gặp cơn lốc xoáy dữ khiến thuyền bị lật. Người vợ trẻ của Trần Nhật Duật và cả đoàn tùy tùng bị chìm dưới dòng sông. Đã mấy ngày trôi qua, mà thân xác bà vẫn chưa được tìm thấy. Cảm thương trước tình cảnh của bà, triều đình đã ra lệnh cho toàn dân đôi bờ sông Gâm tổ chức tìm vớt thi thể bà và trọng thưởng cho ai tìm thấy. Khi đó có người trong dòng họ Ma đã vớt được thi thể bà. Để tưởng nhớ người vợ trẻ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, những người dân địa phương đã lập đền thờ ngay tại nơi bà quy thác. Và dòng họ Ma được quyền chăm lo hương khói cửa đền từ đó.

- Di tích hang Phia Muồn[11] (Sơn Phú) nằm trong khu vực phổ biến là những núi đá phiến sét vôi xen kẽ những núi đất, những dải thung lũng hẹp và những thảm rừng nguyên sinh còn khá nguyên vẹn. Phia Muồn là một di chỉ cư trú và là khu mộ táng của cư dân thuộc nhiều giai đoạn tiền sử khác nhau. Địa tầng và di vật khảo cổ học kèm theo cho thấy có 2 mức văn hóa thuộc 2 giai đoạn phát triển hậu kỳ đá mới: Mức sớm chứa những công cụ tiêu biểu kỹ nghệ truyền thống Hòa Bình như rìu ngắn, công cụ hình đĩa, công cụ bầu dục,... Sự có mặt của nhiều mảnh tước chứng tỏ người nguyên thủy Phia Muồn đã chế tác công cụ ngay tại di chỉ. Lớp văn hóa sớm thuộc giai đoạn sớm của hậu kỳ đá mới, có niên đại khoảng từ 4.300 - 4.000 năm cách ngày nay. Lớp văn hóa muộn thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí có niên đại từ 4.000 - 3.500 năm cách ngày nay. Hai lớp văn hóa sớm và muộn nằm chồng trực tiếp lên nhau, phát triển liên tục, không có lớp giãn cách. Táng tục và đồ tùy táng cho thấy, toàn bộ 12 ngôi mộ thuộc hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí là tục chôn người thân ngay trong di chỉ, với một số loại táng thức mới: bên cạnh táng thức truyền thống trước đó, kiểu chôn người chết nằm co, bó gối là táng thức nằm ngửa, duỗi tay chân và kè đá xung quanh. Những tài liệu ở Phia Muồn đã cung cấp thêm về một loại táng thức cổ mới phát hiện ở Tuyên Quang, đó là tục chôn kè đá vây xung quanh huyệt mộ và rải đá lên thân thể người chết đã hình thành một loại hình văn hóa Hòa Bình thuộc lưu vực sông Gâm, với những sắc thái riêng, tạo nên diện mạo, bản sắc vùng, phản ánh tính đa dạng trong thống nhất của nền văn hóa Hòa Bình nổi tiếng.

Danh lam, thắng cảnh
- Hồ Na Hang, huyện Na Hang: Nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên nên hồ với nhiều cảnh đẹp còn rất nguyên vẹn và hoang sơ.
Danh thắng Cọc Vài - Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình[12]. Tuyên Quang là một trong 3 tỉnh có mật độ che phủ rừng lớn nhất cả nước thì Nà Hang là huyện có mật độ rừng che phủ cao nhất toàn tỉnh, chiếm 71% diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Tại đây có Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung với diện tích bảo tồn được phê duyệt là 42.000 ha. Tại Khu bảo tồn này hiện có 40 loài thú, 70 loài chim, 20 loài bò sát và 17 loài thực vật bậc cao. Tiêu biểu là các loài động vật nằm trong sách đỏ như: Voọc mũi hếch, voọc đen má trắng, gấu ngựa,... hay những cây gỗ đinh, nghiến, trai,... quý hiếm hàng nghìn năm tuổi. Khu bảo tồn có vai trò đặc biệt quan trọng là bảo vệ nguồn nước cho hồ thủy điện Tuyên Quang, điều tiết lũ ở vùng hạ lưu và là điểm du lịch sinh thái, mạo hiểm vô cùng hấp dẫn.
- Ruộng bậc thang Hồng Thái - Na Hang. Nằm tại xã Hồng Thái, huyện Na Hang, ở độ cao trên 1.000m. Khí hậu mát mẻ trong lành quanh năm.
Chú thích
- ^ a b c “Thành lập huyện mới Lâm Bình (Tuyên Quang)”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
- ^ Tổng cục Thống kê
- ^ Quyết định số 269-NV năm 1969
- ^ “Nghị quyết về việc hợp nhất một số tỉnh do Quốc hội ban hành”.
- ^ “Quyết định số 28-HĐBT năm 1987 về việc chia một số xã và thành lập thị trấn của các huyện Bắc Mê, Nà Hang và Yên Sơn thuộc tỉnh Hà Tuyên”.
- ^ Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Quốc hội ban hành
- ^ “Nghị định 56/1999/NĐ-CP năm 1999 về việc giải thể các thị trấn nông trường Tân Trào, Sông Lô, Tháng 10 Và thành lập các xã thuộc các huyện Na Hang, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang”.
- ^ “Nghị định số 14/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số xã, thị trấn thuộc huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang”.
- ^ “Nghị quyết số 07/NQ-CP năm 2011 về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Na Hang và huyện Chiêm Hóa để thành lập huyện Lâm Bình thuộc tỉnh Tuyên Quang”.
- ^ “Di tích đền Pác Tạ”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2020.
- ^ “Di tích hang Phia Muồn”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2020.
- ^ “Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình”.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Na Hang. |